Di tích tích lịch sử Đình- Chùa Quan Lộc, thôn Quan Lộc, xã Tiên Động, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
Cụm di tích đình- chùa Quan Lộc là di tích lịch sử cấp tỉnh, được xếp hạng vào năm 2022, thuộc thôn Quan Lộc, xã Tiên Động, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Đình - chùa Quan Lộc tọa lạc trên cùng một khuôn viên, ngay trung tâm thôn Quan Lộc, xã Tiên Động, có diện tích 2.285m2.
Đình Quan Lộc thờ tứ vị Thành hoàng: Cao Sơn Đại vương, Nam Hải Đại vương, Uy Minh Đại vương và Thiên Quan Đại vương. Theo “Thần tích- thần sắc” ghi lại Cao Sơn Đại vương và Uy Minh Đại vương là nhân thần, vị Nam Hải Đại vương là thủy thần, vị Thiên Quan Đại vương là thiên thần. Theo truyền ngôn, ba vị Cao Sơn Đại vương, Uy Minh Đại vương và Nam Hải Đại vương là nam thần, riêng vị Thiên Quan Đại vương là nữ thần (nhân dân địa phương thường gọi là đức Vua Bà).
Về nhân vật Uy Minh Đại vương, Nam Hải Đại vương và Thiên Quan Đại vương hiện nay chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép lại, còn Cao Sơn Đại vương có nhiều tài liệu ghi chép khác nhau. Cao Sơn Đại vương có tên là Nguyễn Hiển, con người chú ruột của Sơn Tinh. Theo Thần tích và sắc phong đang lưu giữ tại đình Quỳnh Gôi và đình Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ: Vào thời Hùng Vương thứ 18 ở đạo Sơn Tây có Nguyễn Trung, lấy vợ tên là Lê Thị Thận. Hai vợ chồng làm nghề đốn củi. Lê Thị sinh được một người con trai thiên tư khác lạ. Được 3 năm, ông bà đặt tên cho con là Cao Sơn. Năm 16 tuổi, Cao Sơn cao lớn, tinh thông kinh sử, giỏi binh pháp và võ nghệ cao cường. Năm 18 tuổi, bố mẹ ông qua đời. Bấy giờ, Hùng Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử và 6 công chúa nhưng chỉ còn 2 công chúa. Một người lấy Chử Đồng Tử còn một người chưa định lương duyên. Vua bèn truyền lệnh cho dựng lầu tại cửa thành Việt Trì và chiêu truyền dụ các anh tài về ứng thí để kén rể. Ông Cao Sơn cũng về ứng thí. Vua Hùng thấy Cao Sơn văn võ toàn tài liền giao chức "Đô chỉ huy sứ quân".
Lúc đó, ở động Lăng Sương, đạo Sơn Tây có người Nguyễn, húy Tùng cùng Cao Sơn kết nghĩa anh em. Hai người đều tài giỏi, phép thuật tinh thông, vua chọn người giỏi nhất trong thiên hạ, đặt tên là Tản Viên Sơn Thánh gả con gái và nhường ngôi báu cho. Thục Phán (vốn thuộc phân phái nhà Hùng) nghe tin vua Hùng nhường ngôi cho con rể nên rất tức giận phát động chiến tranh, cầu viện nước ngoài với lực lượng hơn 10 vạn tinh binh, 5 ngàn ngựa tốt chia làm 5 đạo tiến vào nước ta. Hùng Duệ Vương lo lắng bèn hỏi Sơn Thánh kế đánh giặc. Sơn Thánh liền tâu xin cử Cao Sơn lo việc chống giặc. Vua giao cho Cao Sơn làm tả kiêm thần (bậc bề tôi bảo vệ bên trái) và giao cho 5 ngàn quân tuần phòng các đạo Hải Dương, Nam Định. Sau 3 đêm, đoàn quân của Cao Sơn đến trại Ngọc Lâm, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương thì trời vừa tối bèn hạ trại nghỉ ngơi. Thấy thế đất đẹp long hổ bao quanh, sơn thủy hữu tình liền hạ lệnh ba quân thiết lập đồn quân và chọn trai tráng trong làng nhập vào quân ngũ. Nhân dân đã cử các bậc phụ lão tâu rằng: lấy đức để thu phục thì dân đều yên, dân trại xin làm đồn sở, sau này làm nơi phụng thờ. Cao Sơn bằng lòng và ban cho 10 hốt bạc để sau này hương hỏa phụng thờ. Sau khi đánh tan quân Thục, Cao Sơn trở về thực ấp ở phủ Phụng Thiên, một thời gian sau thì qua đời. Nhà vua ban chiếu cho các khu, trang, châu, phường, trại, nơi nào xin làm tôi con của Cao Sơn lập miếu thờ phụng, trong đó có đình Quan Lộc và sai sứ sắc phong nguyên tự thần hiệu, nhất phong “Đại vương).
Tương truyền, đình Quan Lộc được xây dựng vào thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVIII), đến thời Nguyễn (đầu thế kỷ XX), đình được trùng tu, tôn tạo khang trang, to đẹp, kiến trúc kiểu chữ Tam gồm ba tòa nhà song song: Đại bái, trung đình và hậu cung. Tòa nhà đại bái được xây dựng với quy mô lớn nhất với 5 gian, các góc mái uốn cong đắp rồng chầu, phượng mớm. Kết cấu khung vì kiểu chồng rường, giá chiêng, đỡ các bộ vì và hệ mái là hệ thống cột cái, cột quân đặt trên các chân tảng đá quả bồng. Hệ thống bảy hiên, xà nách, các con rường có nhiều mảng chạm khắc đẹp với đề tài tứ quý, tứ linh. Tòa trung đình và hậu cung xây tường hồi bít đốc và cùng 3 gian. Phía trước đình là một khoảng sân rộng, có tả vu, hữu vu đặt theo chiều dọc đăng đối hai bên sân, mỗi dãy ba gian, xây tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, kết cấu khung vì kiểu kẻ chuyền. Phía trước cổng đình và đường làng trước cổng đình là một cái ao rộng. Theo quan niệm dân gian, nước ở mặt trước mang yếu tố âm, kiến trúc ở cao mang yếu tố dương, âm dương đối đãi là gốc của sự sinh sôi phát triển, đó là điều con người muốn gửi gắm mong muốn các vị thần che chở, phù hộ cho dân làng nhiều sức khỏe, gia đình hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, mùa vụ bội thu. Góc bên trái ao là một cây đa cổ thụ, cành lá xum xuê, tán xòe rộng. Cách cây đa 20m là miếu giáp Đông thờ vị thần Uy Minh Đại vương. Sát ngay bên tường hồi đình (hướng đông) là chùa Quan Lộc. Cạnh đình còn có các miếu thờ Cao Sơn Đại vương, Nam Hải Đại vương, Thiên Quan Đại Vương.
Trải qua thời gian và sự biến động của lịch sử, một số hạng mục công trình của đình Quan Lộc không còn lưu giữ được, khuôn viên di tích bị thu hẹp lại, một phần đất đình nay là đất ở của dân. Thực hiện chủ trương “Bài trừ mê tín dị đoan” của Đảng, vào năm 1966, đình Quan Lộc bị hạ giải 5 gian đại bái lấy nguyên vật liệu xây dựng các công , khu vực tòa đại bái và sân đình được trưng dụng làm sân kho hợp tác xã, tòa trung đình được sử dụng làm kho lương thực của huyện Tứ Kỳ. Trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp, đình Quan Lộc là nơi mở các lớp học bình dân học vụ, trường cấp I xã Tiên Động. Kháng chiến chống Mỹ, đình là địa điểm học tập (một số lớp) của 6 xã khu Hạ Tứ Kỳ, kho chứa lương thực, nơi tập trung của bộ đội thuộc Quân khu Tả Ngạn trước khi vào chiến trường miền Nam, địa điểm tổ chức Hội nghị “toàn dân bàn việc nước”. Sau năm 1975, đình Quan Lộc là địa điểm tổ chức Hội nghị tổng kết 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đình Quan Lộc được xây dựng theo kiểu chữ “Nhị” gồm 3 gian đại bái và 3 gian hậu cung.
Chùa Quan Lộc cũng như nhiều ngôi chùa khác, chùa là nơi thờ Phật theo thiền phái Đại thừa. Đây là dòng phật phái không chỉ gắn với những trí thức, mà chủ trương thâm nhập vào quần chúng, chỉ ra cho các kiếp tu luôn phải lấy tâm bồ tát làm trọng, có nghĩa là lấy cứu độ chúng sinh làm cứu cánh, coi nhẹ tiểu ngã nhân thân mà đề cao đại ngã trường tồn. Đạo phật Đại thừa coi trọng người hơn ta, thậm chí có thể hy sinh chính bản thân mình. Đại thừa quan tâm nhiều tới lẽ vô thường và vô chấp. Chùa Quan Lộc có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” (J) gồm 5 gian tiền đường và 2 gian thượng điện, xây bít đốc, chất liệu bằng gỗ tứ thiết, mặt tiền quay cùng hướng tây nam, với ý nghĩa các Đức Phật và Bồ Tát ngồi quay hướng nam để nghe lời kêu cứu của chúng sinh.
Năm 1977, chùa Quan Lộc bị hạ giải hoàn toàn, một phần nguyên vật liệu sử dụng làm các công trình phúc lợi của địa phương, một phần xây dựng trụ sở làm việc của UBND xã Tiên Động. Đến năm 2009, theo nguyện vọng của nhân dân địa phương, chính quyền đã cho khôi phục lại ngôi chùa làm nơi sinh hoạt văn hóa tôn giáo cộng đồng. Hiện nay, chùa có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm 3 gian tiền đường và 2 gian thượng điện, mặt tiền quay hướng Đông.
Cụm di tích đình- chùa Quan Lộc là nơi diễn ra nhiều sự kiện có ý nghĩa lịch sử sâu sắc đối với địa phương, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp thông qua việc tổ chức lễ hội truyền thống hằng năm. Đình, chùa, miếu Quan Lộc được xây dựng khá gần nhau đã tạo thành một quần thể di tích lớn- một trung tâm sinh hoạt văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng dân cư, khẳng định một miền quê giàu truyền thống văn hóa.
Đình, chùa Quan Lộc cách trung tâm thành phố Hải Dương khoảng 30km, cách trung tâm huyện Tứ Kỳ khoảng 10km về phía Nam. Đi thăm di tích, du khách xuất phát từ thành phố Hải Dương đến ngã ba Hải Tân theo đường 391 đi Tứ Kỳ- Quý Cao, qua Cầu xe, rẽ phải đến trung tâm UBND xã Tiên Động khoảng 2km, đi tiếp khoảng 1,5km là đến thôn Quan Lộc- nơi có di tích, địa điểm cụm di tích tại địa chỉ sau. Về đến xã Tiên Động, du khách không chỉ được chiêm bái cảnh tại cụm di tích đình – chùa Quan Lộc mà còn có thể check in với rặng dừa tuyệt đẹp tại thôn Hòa Nhuệ